10 luật về khoa học công nghệ được thông qua năm 2025

Thứ năm - 11/12/2025 16:22 4 0
Trong gần 10 tháng, Bộ Khoa học và Công nghệ đã chủ trì soạn thảo, sửa đổi và được thông qua 10 luật, tạo tiền đề quan trọng cho thực hiện Nghị quyết 57.
Ngay sau khi hợp nhất từ 1/3, Bộ Khoa học và Công nghệ bắt tay vào tạo dựng hành lang pháp lý dẫn dắt sự phát triển của lĩnh vực, với mục tiêu tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế. Đây được đánh giá không chỉ là dấu mốc hiếm có trong hoạt động lập pháp của bất kỳ bộ, ngành nào, mà còn cho thấy cường độ làm việc với "công suất tối đa" của Bộ, từ xây dựng chính sách, hoàn thiện hồ sơ, lấy ý kiến đề xuất, góp ý đến xử lý hàng nghìn trang tài liệu cho 10 luật trong chưa đầy một năm.
1
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước xem màn trình diễn của robot hình người do Việt Nam phát triển, ngày 19/8. Ảnh: Giang Huy.
"Việc chỉnh sửa, bổ sung các luật không chỉ nhằm cập nhật thực tiễn mà còn thể hiện rõ nét quyết tâm tháo gỡ điểm nghẽn thể chế, lâu nay được xem là rào cản lớn cho phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số", Thứ trưởng Lê Xuân Định cho biết trong họp báo tháng 7. Ông chia sẻ, để hoàn thành khối lượng công việc lớn như vậy, các cơ quan chủ trì soạn thảo "làm xuyên đêm là chuyện bình thường".

Đại diện nhiều doanh nghiệp cho biết đang cảm nhận rõ rệt những thay đổi tích cực trong việc vận hành và quản lý của nhà nước, đặc biệt với sự ra đời của các luật về khoa học công nghệ. "Với hàng loạt chính sách mới, sát sườn, luật như 'luồng gió mới', tạo ra khuôn khổ pháp lý mang tính đột phá giúp giảm bớt gánh nặng và tự tin hơn trong hành trình khởi nghiệp", Xuân Tiến, đại diện công ty khởi nghiệp tại TP HCM đánh giá.

Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo

Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo gồm 73 điều, được Quốc hội thông qua ngày 27/6 và có hiệu lực từ ngày 1/10. Luật xác lập các chính sách lớn nhằm thúc đẩy nghiên cứu, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo, tập trung vào phát triển hạ tầng, khuyến khích mạo hiểm, khoán chi linh hoạt và miễn trừ trách nhiệm khi chấp nhận rủi ro.

Theo Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng, lần đầu tiên, "đổi mới sáng tạo" được đưa vào luật, ngang hàng với khoa học công nghệ, thể hiện sự thay đổi căn bản trong tư duy phát triển. Luật bổ sung nhiều cơ chế hỗ trợ hoạt động đổi mới sáng tạo, đặc biệt trong doanh nghiệp, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của tổ chức trung gian.

Luật cũng thay đổi cách tiếp cận trong quản lý nhà nước, chuyển từ kiểm soát đầu vào sang đánh giá hiệu quả đầu ra, khuyến khích nghiên cứu hướng tới thực tiễn, chấp nhận rủi ro đi kèm với cơ chế quản trị rủi ro. Các tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu được trao quyền sở hữu kết quả để thương mại hóa và hưởng tối thiểu 30% thu nhập từ sản phẩm ứng dụng, đồng thời được miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân từ khoản thu nhập này. Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ chịu trách nhiệm đo lường hiệu quả tổng thể, lấy kết quả làm căn cứ phân bổ nguồn lực và quyết định việc giao nhiệm vụ tiếp theo.

"Thay vì chỉ đi một chiều như trước là xuất phát từ nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ để phát triển các sản phẩm mới, lần này tập trung vào một chiều mới là lấy thị trường, định hướng sản phẩm làm động lực, làm định hướng cho phát triển công nghệ, xác định các bài toán nghiên cứu liên quan", Bộ trưởng nói.

Luật Công nghiệp công nghệ số

Luật Công nghiệp công nghệ số được thông qua ngày 14/6, với các nội dung về cơ chế ưu đãi doanh nghiệp công nghệ số; phát triển hạ tầng số dùng chung; khuyến khích khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; đào tạo nhân tài và thử nghiệm công nghệ có kiểm soát.

Trong đó, Luật quy định địa phương có chính sách hỗ trợ phát triển nhân lực công nghiệp công nghệ số làm việc tại các dự án nghiên cứu, sản xuất sản phẩm công nghệ số trọng điểm, chip bán dẫn, trí tuệ nhân tạo được hỗ trợ một phần chi phí thuê nhân lực chất lượng cao; chi phí đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp.

Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, công nhận kỹ năng công nghệ số của người học theo chuẩn quốc tế, chuẩn khu vực, chuẩn nước ngoài được công nhận rộng rãi.

Theo ông Nguyễn Khắc Lịch, Cục trưởng Công nghiệp CNTT, luật đưa ra chính sách ưu đãi cao nhất dành cho các dự án công nghệ số trọng điểm như bán dẫn, AI. Luật cũng khuyến khích doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ và hợp tác với doanh nghiệp trong nước, thúc đẩy sản phẩm Make in Viet Nam, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt.

Luật Công nghiệp công nghệ số có hiệu lực từ ngày 1/1/2026.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật

Luật được thông qua ngày 14/6 và có hiệu lực từ 1/1/2026, quy định tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thuộc nhóm phải áp dụng quy chuẩn kỹ thuật có trách nhiệm công bố hợp quy đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường, đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội.

Luật đơn giản hóa thủ tục khi cho phép miễn thực hiện công bố hợp quy với sản phẩm, hàng hóa đáp ứng đầy đủ yêu cầu về quản lý chất lượng theo quy định của luật khác tương ứng với yêu cầu kỹ thuật tại quy chuẩn kỹ thuật quốc gia.

Để giảm thiểu thủ tục hành chính, gây tốn kém cho doanh nghiệp, Luật cũng quy định mở rộng việc sử dụng kết quả đánh giá sự phù hợp làm cơ sở cho hoạt động công bố hợp quy; miễn thực hiện công bố hợp quy đối với sản phẩm, hàng hóa đáp ứng đầy đủ yêu cầu quản lý chất lượng theo quy định của pháp luật chuyên ngành.

Theo đại diện Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng quốc gia, luật được xây dựng với tinh thần đổi mới mạnh mẽ, góp phần thể chế hóa các chủ trương lớn về thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
2
Phòng thí nghiệm bán dẫn Trung tâm nghiên cứu triển khai, Khu công nghệ cao TP HCM, tháng 12/2024. Ảnh: Quỳnh Trần.
Luật sửa đổi bổ sung Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa

Ngày 18/6, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, có hiệu lực từ 1/1/2026. Một trong những điểm nổi bật của luật là sản phẩm hàng hóa hiện được phân loại theo nhóm sẽ chuyển sang phân loại theo ba mức độ rủi ro thấp - trung bình - cao để quản lý. Trên cơ sở đó, Chính phủ, bộ quản lý ngành, lĩnh vực đánh giá và phân loại mức độ rủi ro gắn với biện pháp quản lý chất lượng tương ứng để đảm bảo tính linh hoạt và khả thi trong thực tế.

Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, luật được sửa đổi theo hướng chuyển phương thức quản lý từ tiền kiểm sang hậu kiểm, yêu cầu quản lý bằng dữ liệu và công nghệ, và chuyển từ khuyến khích sang ràng buộc trách nhiệm.

Quy định mới được đánh giá phù hợp thực tiễn và thông lệ quốc tế, giải quyết kịp thời các khó khăn, cắt giảm thủ tục hành chính trong hoạt động kiểm tra chất lượng hàng hóa nhập khẩu; ứng dụng công nghệ trong quản lý chất lượng sản phẩm để phù hợp bối cảnh về chuyển đổi số. Ngoài ra, Luật cho phép thừa nhận kết quả đánh giá chỉ định của các bộ, ngành để giảm thiểu chi phí của tổ chức đánh giá sự phù hợp.

Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi)

Ngày 27/6, Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) với 73 điều được thông qua và sẽ có hiệu lực từ 1/1/2026. Luật quy định Nhà nước đẩy mạnh phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình, phục vụ phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân; góp phần bảo đảm an ninh năng lượng; ưu tiên đầu tư, đa dạng hóa nguồn vốn cho phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử.

Nhà nước bảo đảm ngân sách nhà nước cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử; xây dựng và vận hành mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường quốc gia; có cơ chế ưu đãi về đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, sử dụng, trọng dụng nguồn nhân lực; đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị và phòng thí nghiệm cho cơ sở nghiên cứu, đào tạo trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.

Luật quy định việc phát triển năng lượng nguyên tử phải ưu tiên chuyển giao và áp dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ thân thiện môi trường. Đặc biệt, Luật đặt ra yêu cầu tăng cường năng lực chế tạo và nội địa hóa trang thiết bị trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử; từng bước nâng cao tỷ lệ nội địa hóa trong xây dựng và chế tạo thiết bị, tiến tới làm chủ công nghệ điện hạt nhân.

Ông Nguyễn Tuấn Khải, Cục trưởng An toàn bức xạ hạt nhân, cho biết luật đưa điện hạt nhân trở thành chiến lược quốc gia, đáp ứng tiêu chí năng lượng sạch, góp phần vào mục tiêu giảm phát thải carbon, bảo đảm nhu cầu và an ninh năng lượng, kiến tạo không gian phát triển mới.

Luật Trí tuệ nhân tạo

Ngày 10/12, Quốc hội thông qua Luật Trí tuệ nhân tạo, đánh dấu Việt Nam thuộc nhóm quốc gia đầu tiên trên thế giới có luật chuyên biệt về trí tuệ nhân tạo. Luật xác định nguyên tắc quản lý theo mức độ rủi ro, khuyến khích đổi mới sáng tạo nhưng phải bảo đảm an toàn, an ninh, quyền con người và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Luật quy định nhóm hành vi bị cấm tuyệt đối, trong đó sử dụng trí tuệ nhân tạo để thao túng hành vi, nhận thức của con người; tạo nội dung giả mạo nhằm lừa đảo, xâm phạm danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; lợi dụng trẻ em, người khuyết tật, người cao tuổi và các nhóm yếu thế. Các hành vi sử dụng AI gây phương hại đến quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội cũng thuộc nhóm bị cấm.

Về quản lý theo mức độ rủi ro, luật đưa ra 3 mức rủi ro gồm thấp, trung bình và cao, giảm so với 4 mức của dự thảo trước đó, kèm điều khoản về các hành vi bị cấm, bảo đảm phân tầng quản lý rõ ràng, minh bạch. Doanh nghiệp phải tự chuẩn bị hồ sơ đánh giá an toàn trước khi triển khai, không phải xin phép, nhưng phải xuất trình khi cơ quan quản lý thực hiện hậu kiểm.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, trí tuệ nhân tạo là lĩnh vực mới, phát triển rất nhanh, tác động sâu rộng đến kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và công tác quản trị quốc gia. Việc sớm ban hành luật là cần thiết để tạo khuôn khổ pháp lý cho phát triển, chủ động nắm bắt cơ hội và quản trị rủi ro. Ông cho biết, trong quá trình xây dựng luật, Chính phủ đã nghiên cứu kỹ kinh nghiệm quốc tế, lựa chọn cách tiếp cận kết hợp, có chọn lọc, bảo đảm hài hòa giữa an toàn và phát triển. Các nội dung kỹ thuật sẽ được quy định chi tiết tại nghị định để phù hợp với lĩnh vực công nghệ có tốc độ thay đổi nhanh.

Luật Trí tuệ nhân tạo có hiệu lực từ ngày 1/3/2026.
3
Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu tại Hội thảo khoa học về AI tháng 9. Ảnh: Lưu Quý.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ được thông qua ngày 10/12, với trọng tâm đưa quyền sở hữu trí tuệ trở thành tài sản có thể định giá, giao dịch, thế chấp và khai thác như một nguồn lực kinh tế.

Luật quy định chủ sở hữu được sử dụng quyền sở hữu trí tuệ để thực hiện giao dịch dân sự, thương mại, đầu tư và hoạt động khác theo quy định. Nhà nước khuyến khích khai thác quyền sở hữu trí tuệ để góp vốn, thế chấp vay vốn theo pháp luật về đầu tư, doanh nghiệp, tín dụng và quy định liên quan.

Nhà nước cũng thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện hoạt động sở hữu trí tuệ thông qua ưu tiên phát triển hạ tầng số, xây dựng cơ sở dữ liệu về bảo hộ và cơ sở dữ liệu về giá giao dịch quyền sở hữu trí tuệ, bảo đảm an toàn, minh bạch và thân thiện với người dùng. Quy trình nghiệp vụ được tự động hóa trên cơ sở dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo để nâng cao hiệu quả quản lý.

Việc giao dịch quyền sở hữu trí tuệ được thực hiện thông qua các trung tâm đổi mới sáng tạo. Chính phủ có trách nhiệm thiết lập hệ thống định giá minh bạch, trong đó Luật quy định xây dựng cơ sở dữ liệu về giá giao dịch quyền sở hữu trí tuệ làm căn cứ tham chiếu cho thị trường.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết luật hướng đến việc đưa tài sản trí tuệ trở thành tài sản kinh tế của doanh nghiệp, có thể định giá, mua bán, ghi nhận trong báo cáo tài chính và trở thành tài sản bảo đảm để vay vốn. Trọng tâm chuyển từ cơ chế "bảo vệ quyền" sang "tài sản hóa - thương mại hóa - thị trường hóa" kết quả nghiên cứu.

Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1/4/2026.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ được thông qua ngày 10/12 và có hiệu lực từ 1/4/2026. Việc sửa đổi nhằm hoàn thiện khung pháp lý, thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ hiệu quả, đồng bộ và theo kịp xu hướng quốc tế. Trong đó, luật mới sẽ rút gọn thủ tục hành chính, cập nhật danh mục công nghệ mới, công nghệ chiến lược và mở rộng ưu đãi cho các hoạt động chuyển giao. Ba mức độ chuyển giao được quy định gồm ứng dụng, làm chủ và nghiên cứu - phát triển, với chính sách hỗ trợ, ưu đãi tăng dần theo từng cấp độ, khuyến khích doanh nghiệp tiến tới làm chủ và sáng tạo công nghệ.

Nhà nước khuyến khích góp vốn bằng công nghệ được tạo ra từ hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tại Việt Nam thông qua các biện pháp hỗ trợ thẩm định giá, xác lập quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng công nghệ hợp pháp. Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, quy định này khắc phục tình trạng "đóng băng" kết quả nghiên cứu, biến tri thức thành tài sản có thể giao dịch, đầu tư.

Luật cũng tăng cường kiểm soát chuyển giao công nghệ xuyên biên giới nhằm bảo đảm an ninh công nghệ, đồng thời thúc đẩy xuất khẩu công nghệ Việt Nam. Nhà nước sẽ phát triển thị trường khoa học công nghệ minh bạch, chuyên nghiệp, lấy sàn giao dịch và trung tâm công bố công nghệ làm hạt nhân kết nối cung - cầu.

Luật Công nghệ cao (sửa đổi)

Luật Công nghệ cao (sửa đổi) bao gồm 6 chương, 27 điều, quy định về hoạt động công nghệ cao, chính sách, biện pháp khuyến khích và thúc đẩy hoạt động công nghệ cao cũng như các hoạt động liên quan đến phát triển công nghệ chiến lược. Luật được thông qua ngày 10/12 và có hiệu lực từ 1/7/2026.

Nhà nước xác định phát triển công nghệ cao, công nghệ chiến lược là đột phá chiến lược để phát triển nhanh, bền vững kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ quốc gia. Luật cho phép áp dụng mức ưu đãi cao nhất theo quy định của pháp luật về đầu tư, thuế, đất đai và các chính sách có liên quan đối với hoạt động công nghệ cao, công nghệ chiến lược. Nhà nước thực hiện chính sách đầu tư có trọng tâm, trọng điểm; ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước dành cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo để chi cho nghiên cứu, phát triển, thử nghiệm, ứng dụng và thương mại hóa công nghệ cao, công nghệ chiến lược.

Điểm mới của Luật là Nhà nước thực hiện chính sách hỗ trợ tăng cường liên kết giữa viện nghiên cứu, cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp nhằm tạo nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo vững chắc; áp dụng cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển, nội địa hóa, làm chủ và ứng dụng công nghệ; hình thành và phát triển doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp công nghệ chiến lược và doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ cao, công nghệ chiến lược.

Ngoài ra, luật cũng đề cập chính sách ưu đãi và cơ chế đặc thù để thu hút, phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao, công nghệ chiến lược; bảo đảm điều kiện sống và làm việc thuận lợi nhất cho nhân lực công nghệ cao, công nghệ chiến lược làm việc tại Việt Nam.
4
Trung tâm Vũ trụ Việt Nam tại Khu Công nghệ cao Hòa Lạc, Hà Nội, tháng 3/2025. Ảnh: Giang Huy.

Luật Chuyển đổi số

Sáng 11/12, Quốc hội thông qua luật cuối cùng trong tổng số 10 luật do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì soạn thảo. Đó là Luật Chuyển đổi số, sẽ có hiệu lực từ 1/7/2026.

Luật xác định việc quản lý, điều hành trên môi trường số là mặc định, trên giấy là ngoại lệ. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm mọi công dân, không phân biệt độ tuổi, giới tính, trình độ, điều kiện địa lý hay kinh tế, đều có cơ hội tiếp cận và sử dụng dịch vụ công trực truyến.

Hệ thống dịch vụ công trực tuyến phải tuân thủ chuẩn mực quốc tế, có giao diện thân thiện, đa ngôn ngữ, ngôn ngữ ký hiệu và các hình thức hỗ trợ người khuyết tật. Nền tảng cần tương thích với nhiều loại thiết bị, đồng thời có công cụ hỗ trợ người dân ở vùng sâu, vùng xa và khu vực đặc biệt khó khăn.

Luật xác định chuyển đổi số là "đột phá hàng đầu", ưu tiên phát triển hạ tầng, dữ liệu, nhân lực, hợp tác quốc tế. Các nguyên tắc được luật hóa gồm: lấy người dân làm trung tâm, số hóa ngay từ đầu và quản lý dựa trên dữ liệu, để không ai bị bỏ lại phía sau.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết Luật Chuyển đổi số được thiết kế theo hướng luật khung, quy định các nguyên tắc, chính sách chung về chuyển đổi số, kiến trúc số, trách nhiệm của các chủ thể tham gia chuyển đổi số. Điều này nhằm đảm bảo mọi hoạt động chuyển đổi số trên phạm vi toàn quốc diễn ra thống nhất, an toàn và hiệu quả, khắc phục tình trạng cát cứ.

Luật tạo ra sự liên kết các luật chuyên ngành về chuyển đổi số để hình thành một thể thống nhất, liên thông, toàn diện, an toàn và hiện đại về một quốc gia số, nhưng không can thiệp vào bên trong các luật chuyên ngành. Luật cũng tháo gỡ các khó khăn chung về chuyển đổi số của các cơ quan trung ương và địa phương, nhất là về thủ tục hành chính.

Tác giả: Châu An - Lưu Quý - Trọng Đạt

Nguồn tin: vnexpress.net

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây