Trung tâm Khoa học công nghệ và Truyền thông Nghệ AnTrung tâm Khoa học công nghệ và Truyền thông Nghệ An
Trang thông tin điện tử
Trung tâm Khoa học công nghệ và Truyền thông Nghệ An
Kinh tế số và đổi mới sáng tạo: Hai động cơ tăng trưởng mới của Việt Nam
Thứ ba - 25/11/2025 10:44120
Khi mô hình tăng trưởng truyền thống bộc lộ giới hạn, Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới với hai động lực song hành: kinh tế số và đổi mới sáng tạo. Đây không chỉ là xu hướng tất yếu của thời đại dữ liệu và công nghệ, mà còn là lựa chọn chiến lược giúp nền kinh tế Việt Nam thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, nâng cao năng suất và sức cạnh tranh trong thập kỷ tới.
Từ “tốc độ tăng trưởng” đến “chất lượng tăng trưởng”
Trong suốt 3 thập kỷ qua, tăng trưởng kinh tế Việt Nam chủ yếu dựa trên 3 yếu tố: vốn đầu tư, lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên.
Mô hình này đã đóng góp quan trọng vào sự bứt phá ban đầu, song đến nay đã dần đạt ngưỡng giới hạn. Khi dư địa tăng trưởng theo chiều rộng thu hẹp, yêu cầu đặt ra là phải tìm kiếm động cơ mới có khả năng tạo ra giá trị gia tăng cao, năng suất cao, và phát triển bền vững.
Kinh tế số, với bản chất dựa trên tri thức và công nghệ, đang trở thành câu trả lời cho bài toán đó. Theo định hướng phát triển đến năm 2030, Việt Nam đặt mục tiêu kinh tế số chiếm khoảng 30% GDP, trong đó các ngành công nghiệp số, thương mại điện tử, tài chính số, dịch vụ công trực tuyến và đổi mới sáng tạo chiếm vai trò nòng cốt.
Đó là bước chuyển về chất - từ nền kinh tế dựa vào khai thác vật chất sang nền kinh tế dựa vào tri thức, dữ liệu và sáng tạo.
Ảnh minh họa.
Sự chuyển đổi này gắn chặt với vai trò điều phối của Bộ KH&CN, cơ quan được Chính phủ giao nhiệm vụ xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia, phát triển công nghệ lõi và hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất kinh doanh.
Khi KH&CN trở thành động lực trung tâm, mọi chính sách phát triển kinh tế số đều gắn với đổi mới sáng tạo - tức là “đổi mới để số hóa và số hóa để đổi mới”.
Không thể không nhắc tới những công nghệ nền tảng đang định hình kinh tế số: Trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, Internet vạn vật, chuỗi khối, phân tích dữ liệu lớn. Những công nghệ này giúp tái cấu trúc mô hình sản xuất - kinh doanh, tối ưu chi phí, minh bạch quy trình và mở rộng thị trường toàn cầu.
Ở chiều ngược lại, chính nhu cầu chuyển đổi số của doanh nghiệp Việt lại tạo áp lực buộc hệ thống chính sách, cơ sở hạ tầng và nhân lực phải thay đổi nhanh hơn - đó chính là “hiệu ứng lan tỏa” của đổi mới sáng tạo trong thực tiễn phát triển.
Đổi mới sáng tạo - trụ cột của năng lực cạnh tranh quốc gia
Đổi mới sáng tạo không chỉ là công cụ, mà là tinh thần của thời đại số. Một quốc gia không thể có nền kinh tế số mạnh nếu thiếu đổi mới sáng tạo và không thể có đổi mới sáng tạo thực chất nếu không có nền KH&CN phát triển.
Chính vì vậy, Quyết định số 569/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030, coi đây là động lực trung tâm cho phát triển nhanh và bền vững.
Theo Chiến lược này, đổi mới sáng tạo được đặt trong mối quan hệ tương hỗ với doanh nghiệp. Doanh nghiệp là trung tâm của đổi mới sáng tạo, còn Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, định hướng và hỗ trợ thông qua chính sách, quỹ đầu tư, ưu đãi thuế và bảo hộ sở hữu trí tuệ. Nhiều doanh nghiệp KH&CN Việt Nam như FPT, Viettel, SOTATEK, Phenikaa… đã trở thành minh chứng cho khả năng “Make in Vietnam” không chỉ sử dụng công nghệ, mà còn làm chủ và sáng tạo công nghệ.
Đổi mới sáng tạo không chỉ là công cụ, mà là tinh thần của thời đại số. Ảnh minh họa.
Bộ KH&CN cũng đang triển khai hàng loạt chương trình trọng điểm như: Đổi mới sáng tạo quốc gia, Phát triển doanh nghiệp KH&CN hay Hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo, qua đó hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo vùng, gắn kết viện nghiên cứu - trường đại học - doanh nghiệp. Mục tiêu là tạo ra “vòng tuần hoàn đổi mới” từ ý tưởng, nghiên cứu, thử nghiệm đến thương mại hóa sản phẩm.
Có thể thấy, đổi mới sáng tạo không chỉ gắn với lĩnh vực công nghệ cao, trong nông nghiệp, giáo dục, y tế hay văn hóa, những mô hình ứng dụng công nghệ số như truy xuất nguồn gốc nông sản, đào tạo trực tuyến, hồ sơ y tế điện tử, hay chuyển đổi di sản thành dữ liệu mở đều là biểu hiện của sáng tạo trong đời sống.
Khi đổi mới sáng tạo lan tỏa vào từng lĩnh vực, từng cộng đồng, sức mạnh nội sinh của nền kinh tế sẽ được kích hoạt.
Gắn kết kinh tế số với con người và tri thức
Một nền kinh tế số mạnh không chỉ cần hạ tầng công nghệ, mà quan trọng hơn là hạ tầng con người - nguồn lực tri thức và tư duy sáng tạo. Cùng với việc đầu tư vào hạ tầng số, cần đầu tư mạnh mẽ cho giáo dục - đào tạo, khơi dậy tinh thần học hỏi và đổi mới sáng tạo trong thế hệ trẻ.
Những chính sách phát triển nhân lực số, hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo nội bộ, khuyến khích học tập suốt đời chính là nền tảng để Việt Nam bước vào giai đoạn “kinh tế tri thức” thực thụ.
Bên cạnh đó, phát triển kinh tế số và đổi mới sáng tạo phải đặt trong khuôn khổ pháp lý minh bạch, cởi mở nhưng kiểm soát được rủi ro.
Khung pháp luật về dữ liệu, sở hữu trí tuệ, an ninh mạng và sandbox thử nghiệm công nghệ cần được hoàn thiện theo hướng vừa khuyến khích sáng tạo, vừa bảo vệ quyền lợi của người dân và doanh nghiệp. Khi hành lang pháp lý thông suốt, công nghệ sẽ thực sự trở thành lực đẩy thay vì rào cản.
Tạo sức bật cho một nền kinh tế tự chủ và bền vững
Kinh tế số và đổi mới sáng tạo không phải 2 hướng đi tách biệt mà là 2 dòng chảy song hành, tương hỗ. Một nền kinh tế số hiệu quả sẽ thúc đẩy nhu cầu đổi mới, còn đổi mới sáng tạo sẽ liên tục cung cấp năng lượng mới cho nền kinh tế số. Sự kết hợp này, nếu được đầu tư và định hướng đúng, sẽ giúp Việt Nam không chỉ bắt kịp mà còn có cơ hội đi nhanh hơn trong một số lĩnh vực mũi nhọn.
Trong tiến trình đó, Bộ KH&CN giữ vai trò “nhạc trưởng” trong việc kết nối các nguồn lực, từ nghiên cứu đến ứng dụng, từ nhà khoa học đến doanh nghiệp, từ sáng chế đến thị trường. Mỗi bước đi của chính sách KH&CN đều hướng tới mục tiêu chung: Đưa tri thức trở thành nền tảng, công nghệ trở thành động lực, con người trở thành trung tâm của phát triển.
Từ nền tảng ấy, Việt Nam có thể hình thành một nền kinh tế tri thức tự chủ - nơi đổi mới sáng tạo được coi trọng như một giá trị xã hội, nơi công nghệ phục vụ con người, tăng trưởng gắn liền với phát triển bền vững.
Hai động cơ “kinh tế số” và “đổi mới sáng tạo” vì thế không chỉ là định hướng phát triển, mà là con đường tất yếu để Việt Nam vươn lên trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, tự tin bước vào hàng ngũ các quốc gia đổi mới sáng tạo năng động của thế giới./.