An ninh khoa học và chủ quyền công nghệ - yêu cầu mới trong bối cảnh hội nhập

Thứ hai - 03/11/2025 16:26 18 0
Trong kỷ nguyên cạnh tranh công nghệ toàn cầu, bảo đảm an ninh khoa học và củng cố chủ quyền công nghệ đã trở thành nhiệm vụ chiến lược của mọi quốc gia. Với Việt Nam, đây không chỉ là yêu cầu bảo vệ tri thức và dữ liệu quốc gia, mà còn là một định hướng hành động cụ thể trong thực thi Chỉ thị 09/CT-TTg về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Khoa học - chiến lược mềm trong bảo vệ chủ quyền công nghệ

Sức mạnh của quốc gia trong thế kỷ XXI không chỉ được đo bằng tiềm lực kinh tế hay quân sự, mà còn bằng khả năng làm chủ công nghệ và tri thức.

Khi dữ liệu, trí tuệ nhân tạo, năng lượng tái tạo, vật liệu mới hay công nghệ bán dẫn trở thành nền tảng của mọi ngành, việc bảo vệ tài nguyên khoa học đồng nghĩa với bảo vệ chủ quyền quốc gia trong không gian mới - không gian công nghệ.
1
Trong kỷ nguyên cạnh tranh công nghệ toàn cầu, bảo đảm an ninh khoa học và củng cố chủ quyền công nghệ đã trở thành nhiệm vụ chiến lược của mọi quốc gia. Ảnh minh họa.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã tích cực hội nhập và tham gia sâu vào các chuỗi giá trị toàn cầu. Nhiều dự án hợp tác nghiên cứu quốc tế được triển khai, các trung tâm đổi mới sáng tạo ra đời, hạ tầng số và dữ liệu quốc gia được xây dựng. Tuy nhiên, cùng với cơ hội là những thách thức hiện hữu: nguy cơ rò rỉ dữ liệu nghiên cứu, phụ thuộc công nghệ nhập khẩu và “chảy máu chất xám” khi nhân lực chất lượng cao bị hút ra nước ngoài.

Chính vì vậy, Chỉ thị số 09/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã đặt ra yêu cầu “phát triển các lĩnh vực công nghệ mới, công nghệ lõi gắn với bảo đảm an toàn, an ninh mạng và chủ quyền số quốc gia”.

Đây không chỉ là định hướng kỹ thuật, mà là tư duy chính trị - chiến lược trong thời đại dữ liệu. Chủ quyền công nghệ giờ đây không dừng ở việc sở hữu dây chuyền sản xuất hay thiết bị, mà là khả năng tự chủ trong nghiên cứu, thiết kế, tiêu chuẩn và khai thác dữ liệu.

Khi các quốc gia lớn như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc hay Trung Quốc đều công bố chiến lược “tự chủ công nghệ” và “an ninh khoa học”, Việt Nam càng cần xác định rõ vị thế: Hội nhập nhưng không phụ thuộc, hợp tác nhưng phải chủ động. Mỗi công nghệ được chuyển giao, mỗi dữ liệu được chia sẻ phải gắn với nguyên tắc bảo đảm an toàn, bảo mật và phục vụ lợi ích quốc gia.

Đó chính là tinh thần mà Chỉ thị số 09/CT-TTg hướng tới - phát triển KH&CN không chỉ để tăng trưởng, mà còn để giữ vững chủ quyền trên không gian số.

Làm chủ công nghệ để bảo vệ tương lai

Muốn bảo đảm an ninh khoa học, trước hết phải có năng lực tự chủ. Năng lực đó không thể hình thành trong một sớm một chiều, mà phải được xây dựng bằng đầu tư dài hạn cho nghiên cứu, cho con người và cho hạ tầng dữ liệu. Những năm qua, Việt Nam đã có bước đi đầu tiên với việc phát triển các trung tâm dữ liệu quốc gia, chương trình AI quốc gia, xây dựng hệ sinh thái bán dẫn, mở rộng các khu công nghệ cao và trung tâm đổi mới sáng tạo. Đây là những tiền đề quan trọng để hình thành chủ quyền công nghệ thực chất.

Tuy nhiên, để tiến xa hơn, cần hoàn thiện hành lang pháp lý về an ninh khoa học và kiểm soát công nghệ chiến lược. Mọi dự án hợp tác quốc tế, chuyển giao công nghệ, hay đầu tư FDI trong lĩnh vực R&D đều phải được thẩm định chặt chẽ về yếu tố an ninh, sở hữu trí tuệ và lưu trữ dữ liệu. Các cơ quan quản lý cần phối hợp giữa Bộ KH&CN, Bộ TT&TT, Bộ Công an để xây dựng hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật và quy trình bảo vệ tài sản trí tuệ quốc gia.

Song song với đó, phải nâng cao năng lực của đội ngũ làm khoa học. Mỗi nhà khoa học, kỹ sư công nghệ phải được trang bị kiến thức về an toàn dữ liệu, đạo đức nghiên cứu và bảo mật thông tin. Các viện, trường, doanh nghiệp công nghệ phải coi việc bảo vệ dữ liệu nghiên cứu như bảo vệ tài sản quốc gia. Khi ý thức an ninh khoa học được thấm sâu, mỗi tổ chức nghiên cứu sẽ trở thành “pháo đài mềm” trong bảo vệ chủ quyền công nghệ.

Đặc biệt, truyền thông chính sách KH&CN cần phát huy vai trò định hướng nhận thức xã hội. Một nền khoa học mạnh không thể tách khỏi niềm tin và sự đồng thuận của xã hội. Khi công chúng hiểu rằng “an ninh khoa học” không phải là bí mật khép kín, mà là điều kiện để công nghệ phục vụ con người một cách an toàn và bền vững, khi đó, niềm tin vào khoa học sẽ trở thành nền tảng của sức mạnh quốc gia.

Tự cường tri thức - nền tảng của an ninh khoa học

Thế giới đang chuyển từ cạnh tranh kinh tế sang cạnh tranh công nghệ. Mỗi quốc gia không chỉ cần bảo vệ biên giới vật lý, mà còn phải giữ vững biên giới tri thức. Ở Việt Nam, nhiệm vụ này đã được cụ thể hóa trong Chỉ thị số 09/CT-TTg bằng những hành động rõ ràng: Phát triển công nghiệp dữ liệu, bảo đảm an toàn, an ninh mạng; thúc đẩy đào tạo nhân lực KH&CN chất lượng cao; phát triển hạ tầng nghiên cứu và đổi mới sáng tạo theo hướng tự chủ.
2
Phát triển khoa học và công nghệ đi đôi với bảo đảm an ninh, an toàn và chủ quyền quốc gia, hướng tới một Việt Nam độc lập, sáng tạo và bền vững trong kỷ nguyên hội nhập. Ảnh minh họa.
Khi các trung tâm nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp cùng tham gia vào hệ sinh thái sáng tạo, năng lực tự cường công nghệ của Việt Nam sẽ được củng cố. Mỗi sáng chế, mỗi bằng độc quyền sở hữu trí tuệ được đăng ký trong nước không chỉ là kết quả nghiên cứu, mà còn là biểu tượng của chủ quyền tri thức Việt Nam.

Có thể nói, an ninh khoa học và chủ quyền công nghệ là hai mặt của cùng một mục tiêu: bảo vệ tương lai của quốc gia trong thế giới số. Khi Việt Nam biết phát huy sức mạnh nội sinh, kiểm soát công nghệ chiến lược, bảo vệ dữ liệu và khuyến khích sáng tạo, chúng ta không chỉ giữ được chủ quyền công nghệ, mà còn tạo dựng được vị thế tự tin trên bản đồ tri thức toàn cầu.

Đó cũng chính là tinh thần của Chỉ thị số 09/CT-TTg - phát triển khoa học và công nghệ đi đôi với bảo đảm an ninh, an toàn và chủ quyền quốc gia, hướng tới một Việt Nam độc lập, sáng tạo và bền vững trong kỷ nguyên hội nhập./.

Tác giả: Bích Việt

Nguồn tin: vjst.vn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây